Cả Thế Giới Chỉ Có Ta Không Sợ Phản Diện
Chương 56: Chiêu tam mộ tứ 01
(1) Chiêu tam mộ tứ (sáng ba chiều bốn): đánh lừa người khác bằng thủ đoạn, về sau được dùng với nghĩa: thường xuyên thay đổi quyết định và không có trách nhiệm. Ngày nay câu thành ngữ được dùng để tả ai đó luôn luôn thay đổi quyết định và người ta không thể tin vào những điều người đó nói.
Từ lầu hai truyền đến tiếng đóng cửa vang dội rõ ràng, Diệp Vân Chu vuốt phẳng lại nếp nhăn trên cổ áo, nhìn đăm đăm nước canh giải rượu vẫn còn lăn tăn sóng gợn một lát, rồi vẫn quyết định đem thứ này lên đưa cho Mộ Lâm Giang.
Y cầm lấy ngọc giản trên bàn, bưng canh đến trước cửa phòng Mộ Lâm Giang, Hoắc Phong Đình cùng Tô Lê ở cách đó không xa thò đầu ra, mặt mũi đầy vẻ hiếu kì, Diệp Vân Chu đành phải lắc đầu, tỏ ý không có chuyện gì.
“Mộ cung chủ, mở cửa, canh giải rượu.” Diệp Vân Chu bất đắc dĩ nói.
“Không uống.” Mộ Lâm Giang khẩu khí ác liệt.
“Không uống cũng được, mở cửa.” Diệp Vân Chu lại gõ cửa hai cái, “Ta có chính sự cần nói.”
Trong phòng yên lặng một lúc lâu, chốt cửa mới mở ra, Diệp Vân Chu đẩy nhẹ, thấy Mộ Lâm Giang bất động như núi ngồi bên mép giường, tựa như đang nhắm mắt tĩnh tọa.
Chiếc bàn vẫn chia năm xẻ bảy trên mặt đất, Diệp Vân Chu buộc phải đặt bát canh lên tủ thấp cạnh giường, đưa ngọc giản tới trước mặt Mộ Lâm Giang: “Đây là tất cả danh sách nô lệ chúng ta mang ra, thông tin cặn kẽ đều ở trong đó, không chỉ tam đô mà còn có cả người của Tu Chân cảnh, cánh tay Vĩnh Dạ cung đủ dài đấy, chẳng những bắt người còn cố tình mở rộng ở Tu Chân cảnh.”
“Tiếp đó thì sao?” Mộ Lâm Giang hơi ngẩng đầu, mở mắt nhìn chòng chọc y.
“Tiếp đó, đưa nốt phần ngươi mang ra cho ta, chắc chắn vẫn còn người Tu Chân cảnh. Tam đô hiện giờ duy trì cân bằng ngoài mặt, giữ lại vài phần thể diện cho nhau, nhưng láng giềng Tu Chân cảnh của tam đô ấy à, kéo cả Trọng Hoa tiên môn gần chúng ta nhất vào đi, để bọn họ tự đòi lời giải thích từ thành Lăng Nhai.” Diệp Vân Chu không nhanh không chậm nói.
“Tiếp đó thì sao?”
”
Nghe thấy vậy lũ khí khá là không vui. Một con khỉ lớn nhất hỏi ông lão: “Tại sao chúng con chỉ được có ba hạt dẻ vào buổi tối thôi chứ? Không được!”
Những con khỉ khác cũng rất tức giận vì mỗi con chỉ được nhận có ba hạt dẻ thay vì bốn hạt vào buổi tối.
Vì thế ông lão nói với lũ khỉ: “Ồ, nếu vậy thì mỗi con sẽ được ăn ba hạt vào buổi sáng và bốn hạt vào buổi chiều vậy.”
Biết rằng buổi tối chúng vẫn được cho bốn hạt nên lũ khỉ hài lòng lắm và chúng gật đầu đồng ý.
(3) Xưa kia trong một toà miếu, một hôm hòa thượng trưởng lão tên là Pháp Nhỡn triệu tập tất cả các đệ tử lại và đưa ra một câu hỏi kì quặc để khảo sát họ. Ông muốn tìm xem trong các đệ tử của mình người nào có trí tuệ sáng suốt nhất. Câu hỏi là: “Giả sử có một con hổ dữ đeo chiếc chuông vàng trên cổ, lấy ai để cởi được cái chuông ấy”.
Câu hỏi khiến tất cả đệ tử đều bối rối. Mò tới cổ một con hổ hung dữ mà tháo cái chuông ra, thì cũng chẳng khác gì thọc tay vào mõm mà nhổ răng nó. Làm gì có người nào lại đủ can đảm làm như thế? Vì thế mọi người cứ giương mắt nhìn nhau, nhất thời không có ai trả lời được.
Lúc ấy có một tiểu hòa thượng tên là Pháp Đăng đi từ cửa chùa tới. Pháp Nhỡn thấy mọi người không trả lời được, bèn đưa tay vẫy Pháp Đăng đến nhắc lại câu hỏi cho biết và hỏi:
– Con có thể trả lời được không?
Tiểu hòa thượng Pháp Đăng còn ít tuổi như thế mà chẳng cần suy nghĩ gì cả, thuận miệng nói luôn:
– Chuyện này chẳng dễ đâu. Nhưng cứ bảo kẻ nào đã buộc chuông vào cổ con hổ thì tới tháo ra là xong.
Mọi người nghe thấy thế lập tức hiểu ra, nhất loạt vỗ tay hoan hô. Từ đấy về sau, hòa thượng Pháp Nhỡn hết sức coi trọng tiểu hòa thượng Pháp Đăng, ông ta dần dần truyền thụ hết những điều hiểu biết cho Pháp Đăng. Và câu chuyện đã được lưu truyền mãi về sau.
Tại sao tiểu hòa thượng Pháp Đăng nghĩ ra được câu trả lời thông minh như vậy? Có lẽ bởi Pháp Đăng đã hiểu được một quy luật quan trọng trong nhận thức luận về quan hệ nhân quả của sự vật.
Chúng ta hãy tưởng tượng xem, con hổ tuy là loài dã thú cực kì hung dữ, nhưng một khi trên cổ nó đã có đeo một cái chuông, thì tất nhiên là đã có một người có đủ bản lĩnh chế phục được nó, mà đó tức là cái “nhân” của sự việc. Sau khi biết được cái “nhân” thì sẽ có thể tìm ra được đáp án về cái “quả” và đáp án tức là: hãy để cho kẻ nào buộc chuông vào cổ con hổ tới tháo cái chuông ấy.
Câu chuyện này giúp chúng ta có được gợi ý rất tốt về cách nhận thức sự vật và giải quyết mâu thuẫn.
Từ lầu hai truyền đến tiếng đóng cửa vang dội rõ ràng, Diệp Vân Chu vuốt phẳng lại nếp nhăn trên cổ áo, nhìn đăm đăm nước canh giải rượu vẫn còn lăn tăn sóng gợn một lát, rồi vẫn quyết định đem thứ này lên đưa cho Mộ Lâm Giang.
Y cầm lấy ngọc giản trên bàn, bưng canh đến trước cửa phòng Mộ Lâm Giang, Hoắc Phong Đình cùng Tô Lê ở cách đó không xa thò đầu ra, mặt mũi đầy vẻ hiếu kì, Diệp Vân Chu đành phải lắc đầu, tỏ ý không có chuyện gì.
“Mộ cung chủ, mở cửa, canh giải rượu.” Diệp Vân Chu bất đắc dĩ nói.
“Không uống.” Mộ Lâm Giang khẩu khí ác liệt.
“Không uống cũng được, mở cửa.” Diệp Vân Chu lại gõ cửa hai cái, “Ta có chính sự cần nói.”
Trong phòng yên lặng một lúc lâu, chốt cửa mới mở ra, Diệp Vân Chu đẩy nhẹ, thấy Mộ Lâm Giang bất động như núi ngồi bên mép giường, tựa như đang nhắm mắt tĩnh tọa.
Chiếc bàn vẫn chia năm xẻ bảy trên mặt đất, Diệp Vân Chu buộc phải đặt bát canh lên tủ thấp cạnh giường, đưa ngọc giản tới trước mặt Mộ Lâm Giang: “Đây là tất cả danh sách nô lệ chúng ta mang ra, thông tin cặn kẽ đều ở trong đó, không chỉ tam đô mà còn có cả người của Tu Chân cảnh, cánh tay Vĩnh Dạ cung đủ dài đấy, chẳng những bắt người còn cố tình mở rộng ở Tu Chân cảnh.”
“Tiếp đó thì sao?” Mộ Lâm Giang hơi ngẩng đầu, mở mắt nhìn chòng chọc y.
“Tiếp đó, đưa nốt phần ngươi mang ra cho ta, chắc chắn vẫn còn người Tu Chân cảnh. Tam đô hiện giờ duy trì cân bằng ngoài mặt, giữ lại vài phần thể diện cho nhau, nhưng láng giềng Tu Chân cảnh của tam đô ấy à, kéo cả Trọng Hoa tiên môn gần chúng ta nhất vào đi, để bọn họ tự đòi lời giải thích từ thành Lăng Nhai.” Diệp Vân Chu không nhanh không chậm nói.
“Tiếp đó thì sao?”
”
Nghe thấy vậy lũ khí khá là không vui. Một con khỉ lớn nhất hỏi ông lão: “Tại sao chúng con chỉ được có ba hạt dẻ vào buổi tối thôi chứ? Không được!”
Những con khỉ khác cũng rất tức giận vì mỗi con chỉ được nhận có ba hạt dẻ thay vì bốn hạt vào buổi tối.
Vì thế ông lão nói với lũ khỉ: “Ồ, nếu vậy thì mỗi con sẽ được ăn ba hạt vào buổi sáng và bốn hạt vào buổi chiều vậy.”
Biết rằng buổi tối chúng vẫn được cho bốn hạt nên lũ khỉ hài lòng lắm và chúng gật đầu đồng ý.
(3) Xưa kia trong một toà miếu, một hôm hòa thượng trưởng lão tên là Pháp Nhỡn triệu tập tất cả các đệ tử lại và đưa ra một câu hỏi kì quặc để khảo sát họ. Ông muốn tìm xem trong các đệ tử của mình người nào có trí tuệ sáng suốt nhất. Câu hỏi là: “Giả sử có một con hổ dữ đeo chiếc chuông vàng trên cổ, lấy ai để cởi được cái chuông ấy”.
Câu hỏi khiến tất cả đệ tử đều bối rối. Mò tới cổ một con hổ hung dữ mà tháo cái chuông ra, thì cũng chẳng khác gì thọc tay vào mõm mà nhổ răng nó. Làm gì có người nào lại đủ can đảm làm như thế? Vì thế mọi người cứ giương mắt nhìn nhau, nhất thời không có ai trả lời được.
Lúc ấy có một tiểu hòa thượng tên là Pháp Đăng đi từ cửa chùa tới. Pháp Nhỡn thấy mọi người không trả lời được, bèn đưa tay vẫy Pháp Đăng đến nhắc lại câu hỏi cho biết và hỏi:
– Con có thể trả lời được không?
Tiểu hòa thượng Pháp Đăng còn ít tuổi như thế mà chẳng cần suy nghĩ gì cả, thuận miệng nói luôn:
– Chuyện này chẳng dễ đâu. Nhưng cứ bảo kẻ nào đã buộc chuông vào cổ con hổ thì tới tháo ra là xong.
Mọi người nghe thấy thế lập tức hiểu ra, nhất loạt vỗ tay hoan hô. Từ đấy về sau, hòa thượng Pháp Nhỡn hết sức coi trọng tiểu hòa thượng Pháp Đăng, ông ta dần dần truyền thụ hết những điều hiểu biết cho Pháp Đăng. Và câu chuyện đã được lưu truyền mãi về sau.
Tại sao tiểu hòa thượng Pháp Đăng nghĩ ra được câu trả lời thông minh như vậy? Có lẽ bởi Pháp Đăng đã hiểu được một quy luật quan trọng trong nhận thức luận về quan hệ nhân quả của sự vật.
Chúng ta hãy tưởng tượng xem, con hổ tuy là loài dã thú cực kì hung dữ, nhưng một khi trên cổ nó đã có đeo một cái chuông, thì tất nhiên là đã có một người có đủ bản lĩnh chế phục được nó, mà đó tức là cái “nhân” của sự việc. Sau khi biết được cái “nhân” thì sẽ có thể tìm ra được đáp án về cái “quả” và đáp án tức là: hãy để cho kẻ nào buộc chuông vào cổ con hổ tới tháo cái chuông ấy.
Câu chuyện này giúp chúng ta có được gợi ý rất tốt về cách nhận thức sự vật và giải quyết mâu thuẫn.